Thấy anh về, bà Tả lập cập thò tay vào túi áo sờn rách, móc ra năm tờ tiền nhăn nhúm, cũ mèm, khẩn khoản cầu xin: “Tính…tính…
…tính xem thằng ba hiện còn sống hay đã chết, nếu sống thì đang ở tại chỗ nào còn nếu chết thì chôn cất ở nơi đâu?!
Văn Trạch Tài không cầm tiền mà nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay khô gầy, lạnh lẽo kia cho đến khi nhận thấy cảm xúc của bà đã thực sự ổn định anh mới đặt ba đồng xu vào lòng bàn tay bà, chậm rãi hướng dẫn: “Bà Tả, bà nắm chặt lấy cái này rồi thả xuống đất, cháu sẽ tính cho bà.
Nghe có vẻ khá ly kỳ và thần bí, bà Điền bất tri bất giác nghển cao cổ, nín thở chờ đợi.
Rất tiếc, bà Tả cứ ngồi nghệt ra, hết nhìn ba đồng xu trong tay rồi lại ngước lên ngơ ngác nhìn Văn Trạch Tài.
Tuy bà không nói gì nhưng Văn Trạch Tài đã hiểu ra vấn đề. Anh thu lại mấy đồng xu rồi kiên nhẫn làm mẫu.
Kế đến, bà Tả vụng về bắt chước làm theo… “Đinh! Kỳ diệu thay, cả ba đồng xu gần như chạm đất cùng lúc, tạo ra đúng một tiếng vang dứt khoát, chắc gọn.
Nhìn quẻ tượng, Văn Trạch Tài cong cong khoé môi: “Bà Tả, đây là quẻ tốt. Hào (1) đầu tiên hướng về phía đông ý chỉ người có cùng huyết mạch với bà hiện vẫn còn sống. Chẳng những vậy còn là người quyền cao chức trọng, có thành tựu trong xã hội.
[(1)Hào: là ký hiệu cơ bản nhất của Kinh dịch và là thành phần tạo ra quẻ dịch gồm hào dương là 1 nét (vạch liền ___ ) và hào âm là 2 nét (vạch đứt ——). Đó là bản thể của hào. Như vậy, số lẻ lại là dương (1 gạch) ứng với số 1 trong hệ nhị phân và số chẵn (2 gạch) lại là âm ứng với số 0 trong hệ nhị phân tượng trưng trong âm có dương và trong dương có âm.]
Tiếp theo, anh chỉ tay xuống đất, từ tốn giảng giải: “Ba đồng đều ngửa, đồng thời cùng quay về một hướng có nghĩa là mẹ đi tìm con thì con cũng đang đi tìm mẹ. Ở đây, ba mặt dương hợp thành quẻ Càn (2), càn có càn nội và càn ngoại hợp thành sáu hào dương đan xen liên tiếp gọi là quẻ Thuần càn (3), thuyết minh tâm tưởng sự thành, hai người chắc chắn sẽ sớm ngày đoàn tụ.
[(2)Quẻ càn: Gồm có 3 hào dương (3 vạch liền). Đây là quẻ có liên quan đến lãnh tụ, cha và con trai. Quẻ Càn tượng trưng cho trời, cho nghị lực và sự bền bỉ.]
[(3)Quẻ thuần càn: đồ hình |||||| còn gọi là quẻ Càn (乾 qián), tức Trời là quẻ số 1 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội càn là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天) và Ngoại càn là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天).]
Quẻ thuần càn, sáu hào đều là dương (về bản thể), hào 2 và 5 đều là trung, nhưng hào 2 không chính mà chỉ hào 5 mới được cả trung lẫn chính, vì hào 2 là dương ở vị trí Âm (hào chẵn) mà hào 5 là hào dương ở vị trí dương (hào lẻ). Bốn hào kia thì hào 1 và 3 đắc chính mà không đắc trung, hào 4, 6 không đắc chính cũng không đắc trung. Do đó hào 5 quẻ Càn là hào tốt nhất trong quẻ, mà danh Tử “cửu ngũ (cửu là dương, ngũ là thứ 5, cửu ngũ là hào thứ 5, dương) chỉ ngôi vua, ngôi chí tôn. 6 không chính cũng không trung 5 vừa trung vừa chính 4 không chính cũng không trung 3 chính mà không trung 2 trung mà không chính 1 chính mà không trung Quẻ này có ý nghĩa như sau: Mọi việc đều diễn ra đúng theo kế hoạch hoặc sự mong đợi. Thành công và danh tiếng lẫn vận may đều biến thành hiện thực. Tuy nhiên, nếu quá tự mãn, kiêu ngạo hay thái độ hống hách sẽ đưa đến những điều không may. Do đó, phải biết cẩn trọng, chu đáo và suy nghĩ khi làm mọi việc.]
Theo cháu đoán không quá một tháng bà sẽ gặp lại người mà mình mong nhớ bấy lâu.
Bà Tả gắt gao dán chặt mắt vào mấy đồng tiền đang nằm im lìm trên mặt đất, kỳ thật những lời Văn Trạch Tài nói bà chả hiểu được bao nhiêu nhưng câu cuối cùng bà nghe rất rõ và nhớ rất kỹ.