Lúc này Khương Bán nghiêm túc gật đầu: “Năm đó nếu không nhờ ba lập công trên chiến trường, thì con đâu có cơ hội vào nhà máy làm công nhân.”
Khương Ái Quốc nghẹn lời.
Những năm mới thành lập nước, phần lớn người dân nghèo đến mức chỉ có thể ăn cháo loãng cầm hơi, còn không đủ ăn no mặc ấm, nói chi đến chuyện cho con đi học.
Làng lúc đó chỉ tổ chức dạy xóa mù cho trẻ em, học nhận mặt chữ và tính toán cơ bản để không bị mù chữ.
Khương Bán khi theo ba lên Lạc Xuyên thì đã hơn mười tuổi, học sơ sơ mấy năm rồi đi làm công nhân.
“Con vốn không hợp với việc học hành.” Khương Bán liệt kê từng lý do, rồi kết luận: “Con giống ba.”
Có người cố gắng thì đuổi kịp người khác, còn có người dù cố gắng cỡ nào cũng không theo kịp.
Khương Hướng Bắc hoàn toàn đồng cảm.
Cô cũng muốn hét lên rằng mình không hợp học hành chút nào.
Nhưng… cô không phải là Khương Bán, nếu mà cô dám nói câu đó thì thể nào cũng bị đánh một trận. Quan trọng là, bị đánh xong vẫn phải học tiếp.
“Chuyện học hành, Khương Bán đúng là giống ba, quả thật…” Khương Ái Quốc lắc đầu, cũng phải thừa nhận: “Đúng là không được giỏi.”
Khương Bán nhướng mày cười hì hì, rồi đổi giọng ngay sau đó:
“Con là trụ cột trong nhà, học hành thì không thể làm gương, nhưng có thể lo việc hậu cần thật tốt, để mọi người yên tâm mà học.”
Tư Văn Lan không đáp.
Khương Bán lập tức gắp một miếng cá bỏ vào bát của vợ, ân cần nói tiếp: “Cả nhà đều học, vậy ai lo cho tụi nhỏ? Ba thì lớn tuổi rồi, sau này còn phải có người chăm sóc…”
Để thuyết phục Tư Văn Lan, Khương Ái Quốc đang từ một ông cụ bước đi dõng dạc, mạnh mẽ liền hóa thân thành một ông lão chẳng biết khi nào sẽ ngã xuống.
Không biết có phải vì đang nghĩ đến những chuyện đó hay không, mà thái độ của Tư Văn Lan quả thật dịu xuống.
“Được rồi! Em cũng không ép anh.”
“Không phải em ép, là do anh không có bản lĩnh.” Khương Bán vội vàng thể hiện.
Khương Hướng Bắc xem như đã hiểu vì sao mẹ mình – một người phụ nữ mạnh mẽ như vậy – cuối cùng lại chọn cưới ba.
Khương Bán cảm xúc ổn định, vô cùng tôn trọng mọi quyết định của Tư Văn Lan, lại không hề có chút tinh thần đại nam tử nào.
Nếu không, mẹ quá mạnh mẽ, nếu lại gặp một người đàn ông cũng mạnh mẽ, thì cái nhà này có khi ba ngày một trận lớn, hai ngày một trận nhỏ.
“Không học văn hóa cũng được, nhưng ngoại ngữ thì nhất định phải học.” Tư Văn Lan lại nói thêm: “Sách em mượn rồi, qua Tết là bắt đầu.”
Khương Bán: “…”
Khẽ rụt vai lại, biểu cảm trên mặt y như đang nói: lần này tiêu đời thật rồi.
Tư Văn Lan bật cười, dùng đũa gõ nhẹ vào thành bát: “Ăn cơm đi, bày cái mặt đó làm gì.”
Nói đến đồ ăn, lúc này Khương Hướng Bắc mới để ý trên bàn còn có một đĩa bánh bao.
Chỉ nhìn hình thức thôi cũng biết người làm bánh bao này chẳng có tay nghề gì.
Lẽ ra vỏ bánh phải trắng mềm, phồng đều, nhưng mấy cái bánh bao này thì mặt ngoài nhăn nheo, không nở nổi, lại còn bị thấm dầu nhân ra ngoài.
Bữa cơm tất niên tối nay là do Khương Ái Quốc nấu, bánh bao đương nhiên cũng là tác phẩm của ông.
Khương Hướng Bắc gắp một cái bánh bao bỏ vào bát, cắn một miếng to nhai nhồm nhoàm, thì thấy… vỏ bánh dính dính miệng.
“Ông ơi, cái bánh bao…”
“Thật ra tổ tiên nhà mình vốn là người miền Bắc, năm xưa chạy loạn trốn đến Lập Phong Bá, sau đó ông mới được phân về Lạc Xuyên…”
Từ miền Bắc chạy dạt đến tận miền Nam, tập quán sinh hoạt mấy đời nhà họ Khương dần dần cũng giống người miền Nam.
Cả năm hiếm khi trong nhà làm bánh bao, bánh mì, chủ yếu toàn là bún, mì gạo, hủ tiếu v.v.
Không phải không muốn ăn, mà là… thật sự không biết làm. Mua… thì lại tiếc tiền.
Câu chuyện về hành trình dời nhà của tổ tiên Khương Ái Quốc cuối cùng kết lại bằng một câu:
“Bột mì dính nước rồi, để lâu không ăn thì sợ mọc mọt.”
“Lần sau lấy phiếu bột mì đổi thành phiếu gạo đi, nhà mình đúng là không có ai biết làm món làm từ bột.”
Khương Bán vừa cắn một miếng bánh bao cũng phải vội uống nước, để bớt cảm giác dính dính trong miệng.