Vừa nói chuyện với Điềm Đậu, cô vừa để ý hai bên đường xem có tiệm nào bán thịt bò thịt cừu không.
Mấy tiệm này rất dễ nhận ra, vì mặt tiền đều sơn vàng chói. Ít nhất là vào thời này thì đều như vậy.Thời điểm này, đắt nhất là thịt gà do việc nuôi gà công nghiệp chưa phổ biến, lại có quan niệm “không có gà thì không thành tiệc“.
Có lẽ vì thịt gà quá đắt, nên vào đêm giao thừa, món gà quay nguyên con luôn phải được đặt trang trọng ở chính giữa bàn. Xếp thứ hai là “nhị ca” ý chỉ thịt heo. Người ta đặc biệt khoái ăn mỡ heo, nếu nhà nào có người thân làm trong hợp tác xã và có thể mua được “thịt đại” tức phần mỡ nhiều thì đúng là tổ tiên phù hộ.
Kế tiếp là thịt cừu. Cừu ở thủ đô thời này thường có mùi hôi đặc trưng, món xiên thịt cừu vẫn chưa thịnh hành, nói đúng ra thì còn chưa xuất hiện. Thịt cừu chủ yếu dùng để làm nhân bánh bao hoặc thái lát để ăn lẩu vào mùa đông.
Thịt bò thì không được ưa chuộng lắm, vì giống bò chưa được cải tiến, thịt dai, xơ, nấu chín rồi rất khó ăn với người già và trẻ nhỏ. Nhưng mấy chuyện đó không quan trọng, vì Nhạc Thanh Li chỉ muốn mua mấy phần vụn vặt từ thịt bò.
Cô dẫn hai đứa nhỏ vào một cửa hàng có mặt tiền sơn vàng, bảng hiệu viết đầy chữ như mấy ngọn lửa nhỏ, cô chẳng hiểu chữ nào. Người bán là một chú trung niên, đội mũ trắng, mặc áo blouse trắng dài, đeo ống tay áo bằng vải thô xanh, chuẩn phong cách nhân viên thực phẩm và hợp tác xã thời bấy giờ.
Nhạc Thanh Li bước vào, hỏi ngay: “Chú ơi, chỗ này có thịt bò không cần tem phiếu không? Loại vụn ấy ạ!”
Chú gật đầu, chỉ vào cái đĩa men trắng lớn trên quầy, trên đĩa là một đống thịt bò vụn lẫn lộn.
Chú nói: “Chỗ này không cần tem phiếu, cháu muốn mua bao nhiêu?”
Nhạc Thanh Li hỏi tiếp: “Chú ơi, bao nhiêu tiền một cân ạ?”
Chú đáp: “Rẻ lắm, 4 hào một cân. Thịt bò thường thì tận 6 hào một cân cơ! Mà loại này không cần phiếu.”
Hôm qua, lúc phụ mẹ chồng nấu cơm, cô nghe nói “nhị ca ” thịt heo có giá 7 hào 6 xu một cân.
Cô biết thịt bò rẻ, nhưng không ngờ rẻ tới mức này.
“Vậy chú cân cho cháu hai cân nhé!”
Chú nhanh tay cân cho cô hai cân thịt bò vụn.
Trong đấy toàn là mấy phần đầu vụn vặt, gân, mỡ... Người ta ít mua là vì chúng đầy mỡ, nấu lên sẽ tiết nhiều dầu, ít thịt, lại dai.
Chú vừa định đổ thịt ra giấy gói thì nghe cô nói: “Chú ơi, chú xay giúp cháu hết chỗ này nhé!”
Chú khựng lại, ngạc nhiên hỏi: “Cháu nói gì cơ? Muốn xay mấy cái này thành thịt xay á? Loại này không gói bánh bao, bánh chẻo được đâu. Toàn mỡ với gân, ăn dở lắm! Nếu muốn gói thì phải mua loại ngon cơ!”
Nhạc Thanh Li xua tay: “Cháu không gói bánh bao, cũng không làm bánh chẻo. Cháu làm xúc xích bột kiểu xúc xích tự làm ở nhà ấy. Phải có nhiều mỡ mới ngon, nên loại này là chuẩn nhất!”
Quan trọng là... nó rẻ nữa chứ! Cô đang tính xem với chừng này vụn bò thì làm được bao nhiêu cây xúc xích bột.
Chú vẫn ngơ ngác. Nghe rõ từng chữ, nhưng... không hiểu gì cả.
“Xúc xích gì cơ cháu? Gì mà xúc xích bột?”
Nhạc Thanh Li giải thích: “Là kiểu xúc xích tự làm ở nhà, giống xúc xích thông thường nhưng bên trong chủ yếu là bột. Chú cứ yên tâm xay thịt đi, cháu biết mình đang làm gì mà!”
Chú lắc đầu: “Cháu gái này, nhưng cái này là không đổi lại được đâu đấy!”
“Cháu biết rồi ạ, chú cứ yên tâm.”
Chú bỏ thịt vào máy xay thời này chưa có máy xay điện, toàn là loại quay tay. Phải nói thật, chú quay rất vất vả, mấy phần thịt vụn này còn khó xay hơn cả thịt bò thường.
Sợ còn sót mấy phần gân cứng dai, Nhạc Thanh Li nhờ chú xay thêm lần nữa cho kỹ.
Tất cả phần nhân thịt được đổ hết lên tờ giấy vàng, gói lại thành một bọc. Giấy vàng lập tức bị dầu thấm ướt loang lổ. Nhạc Thanh Li cảm ơn ông chú xong, lập tức dắt theo hai đứa trẻ đi thêm một chuyến nữa đến hợp tác xã, lần này là để mua bột năng.
Xúc xích bột, nghe tên là biết nhất định phải có bột năng, mà thậm chí nguyên liệu chính là bột. Khi Nhạc Thanh Li thản nhiên nói với chị nhân viên bán hàng là muốn mua ba cân bột năng, cô nhân viên liền sững người.
Cô ấy đánh giá Nhạc Thanh Li từ trên xuống dưới, sau khi xác định cô gái này trông không giống bị tâm thần, mới giơ tay nói: “Ba cân tem lương thực!”